Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

Học Thuyết Monroe là gì?

Sáng nay, trên các mạng nói  Trung Quốc quyết tâm áp dụng Học thuyết Monroe

Chẳng biết học thuyết Monroe như thế nào? Tìm trên www.tailieu.vn một bài viết bên dưới nhưng không biết tác giả là ai? Rinh tạm về đây:

                                 James Monroe  ( 1759-1831)


1. Học thuyết Monroe (1823)
1.1 Hoàn cảnh ra đời
            Sau các phát kiến địa lý, trong khi phần lớn Bắc Mỹ nằm dưới sự cai quản của Anh thì hầu hết các nước Mỹ Latinh đều là thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sự kiện 13 thuộc địa của Anh hợp lại giành độc lập và lập nên nhà nước Hoa Kỳ đã tác động mạnh đến các quốc gia Mỹ Latinh, thôi thúc các nước này đứng lên giành độc lập, tự do cho riêng mình. Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX, miền Trung và Nam Mỹ đều hướng về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh Napoleon mà cụ thể là cuộc chinh phục Tây Ban Nha của Napoleon năm 1808 đã tạo cơ hội thuận lợi cho người Mỹ latinh vùng lên khởi nghĩa. Cho tới năm 1822, dưới sự lãnh đạo của Simon Boliviar, Francisco Miranda, José de San Martin và Miguel Hidalgo, tất cả các khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Châu Mỹ từ Argentina và Chile ở miền Nam tới Mexico ở miền Bắc đều giành được độc lập.
            Tuy nhiên, chính lúc đó, Nga, Áo, Phổ  đã thiết lập Liên minh Thần thánh để bảo vệ họ trước các cuộc cách mạng. Bằng việc can thiệp vào những nơi phong trào quần chúng đang đe dọa chế độ quân chủ, liên minh này – có sự tham gia của Pháp thời hậu Napoleon – đã huy vọng có thể ngăn chặn cách mạng lan rộng. Chính sách này đã đi ngược với quyền tự quyết của Mỹ và khiến người Mỹ lo âu. Mỹ lo lắng về ý định muốn phục hồi những thuộc địa cũ của Tây Ban Nha sẽ ảnh hưởng tới lợi ích thương mại của Mỹ cũng như là an ninh lãnh thổ nước Mỹ. Và bởi vì Mỹ latinh cũng có ý nghĩa quan trọng đối với lợi ích thương mại của Anh nên Anh cũng muốn ngăn chặn hành động này.  Do đó, Anh hối thúc mở rộng các đảm bảo của Anh – Mỹ đối với Châu Mỹ latinh.
            Về tình hình nước Mỹ, sau cuộc chiến tranh với Anh năm 1812, Mỹ chính thức chấm dứt sự phụ thuộc kinh tế vào các quốc gia Châu Âu. Kinh tế công nông nghiệp dần phát triển, đặc biệt là công nghiệp do động lực lấp khoảng trống trong thương mại với Châu Âu do chiến tranh. Cùng với đó là tư tưởng bành trướng cố hữu lại xuất hiện nhằm tìm kiếm thị trường, phát triển và củng cố thêm nền kinh tế. Ngoài tập trung phát triển kinh tế đất nước, người dân Mỹ còn dõi theo cuôc cách mạng ở Mỹ latinh. Các cuộc cách mạng này đã củng cố niềm tin của người Mỹ về quyền tự trị của họ. Do đó, năm 1822, trước sức áp lực ngày càng lớn của dư luận, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là James Monroe đã công nhận nền độc lập thực sự, toàn toàn tách khỏi những mỗi ràng buộc với các đế quốc Châu Âu của các quốc gia Trung và Nam Mỹ, đồng thời trao đổi công sứ với các quốc gia này. Hơn thế nữa, tổng thống Monroe còn đưa ra Học thuyết Monroe với ý nghĩa bề nổi là tôn trọng và bảo về quyền tự do của người Châu Mỹ, khẳng định “Châu Mỹ là của người Châu Mỹ’.
1.2 Nội dung học thuyết Monroe
            Vào tháng 12 năm 1823, nhân dịp gửi thông điệp hàng năm tới Quốc hội, tổng thống James Monroe đã đưa ra Học thuyết Monroe với 3 nội dung chính sau đây:
            Các lục địa Châu Mỹ…từ nay trở đi không thể được coi là đối tượng của thực dân hóa trong tương lai do bất cứ một cường quốc Châu Âu nào tiến hành.
            Chúng ta phải coi bất kỳ toan tính nào về phần họ nhằm mở rộng hệ thống (chính trị) của họ tới bất cứ một bộ phận nào của bán cầu này đều là nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh của chúng ta.
            Chúng ta đã không can thiệp và sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hay các xứ phụ thuộc nào của bất kỳ cường quốc Châu Âu nào. Nhưng với những chính phủ đã tuyên bố nền độc lập của mình và bảo vệ nền độc lập ấy và được chúng ta thừa nhận thì chúng ta phải coi bất kỳ một sự can thiệp nào nhằm mục đích áp chế họ hay kiểm soát số phận của họ bằng bất kỳ phương pháp nào do bất cứ cường quốc Châu Âu nào thực hiện đều thể hiện khuynh hướng thù địch với nước Mỹ[1].
            Trước hết phải khẳng định rằng, vào thời điểm học thuyết Monroe ra đời, nước Mỹ tuy đã thoát khỏi sự phục thuộc vào kinh tế các nước Châu Âu và dần phát triển kinh tế nhưng Mỹ vẫn chưa thực sự đủ mạnh để thực hiện những gì học thuyết Monroe đề ra nếu như không có sự ủng hộ của Anh. Tuy nhiên, ta phải công nhận rằng, sự ra đời của học thuyết này mang một ý nghĩa to lớn, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, tác động tới quan hệ quốc tế.
1.3 Ý nghĩa
            Nhìn chung, vào thời điểm học thuyết Monroe mới được công bố, học thuyết này đã nhận được nhiều sự ủng hộ phần lớn từ các quốc gia Mỹ Latinh - các quốc gia mà đều hướng tới mục tiêu chung là giành được độc lập, tự do cho dân tộc, thoát khỏi sự ảnh hưởng của các cường quốc Châu Âu. Học thuyết này được xem như đã thể hiện được tinh thần đoàn kết của các quốc gia Châu Mỹ qua sự khẳng định “Châu Mỹ là của người Châu Mỹ”.
Không chỉ vậy, học thuyết Monroe còn là một lời cảnh báo tới các quốc gia Châu Âu hãy tránh xa lục địa Châu Mỹ nói chung và Mỹ latinh nói riêng. Thực chất, đây là một học thuyết nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng, với nỗ lực kiềm chế sự khôi phục và việc giành thêm thuộc địa mới, ngăn chặn những ảnh hưởng sâu rộng của hệ thống chính trị của các quốc gia Châu Âu ở lục địa này và cuối cùng là loại trừ ảnh hưởng của Châu Âu ra khỏi Châu Mỹ. Sự ra đời của học thuyết này được coi là một mốc đánh dấu sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chuyển từ chủ nghĩa trung lập sang chủ nghĩa bành trướng mà mục tiêu bành trướng ở đây trước hết là Mỹ Latinh. Mỹ muốn biến Mỹ Latinh thành “sân sau” của mình, tăng cường sự ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị…của Mỹ ở vùng này. và có thể nói ẩn sau việc tuyên bố học thuyết Monroe là một nỗ lực bành trướng trên toàn bộ lục địa này nhưng bằng phương pháp hòa bình, mang tính chất nhân đạo, bảo vệ công lý và quyền tự do của con người.
Theo dõi xuyên suốt chiều dài lịch sử đối ngoại của Mỹ, ta còn thấy được Học thuyết Monroe là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ sau này, chỉ đạo một xu hướng trong chính sách đối ngoại Mỹ trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là sự ra đời của hệ luận Rossevelt, chính sách ngoại giao đô la, chính sách mở cửa…
Ngoài ra, theo một số quan điểm, học thuyết Monroe chính là một động lực thực sự để thiết lập một chính sách an ninh quốc gia nhằm bảo vệ Mỹ. Theo như lời cựu Cựu thẩm phán tòa án tối cao và ứng cử viên tổng thống Woodrow Wilson vào năm 1916, Charles Evans Hughes thì “Học thuyết Monroe là một chính sách phòng thủ quốc gia… một sự xác nhận nguyên lý của an ninh quốc gia”[2].  Việc Mỹ công nhận nền độc lập của những “hàng xóm” lận cận của mình, đưa ra học thuyết tránh cho những nước này chịu ảnh hưởng của quốc gia Châu Âu cũng chính là bảo vệ an ninh và lãnh thổ Mỹ.


[1] Khái quát về lịch sử nước Mỹ - Ấn phẩm của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ - 2005

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét